cù lao chín chữ ghi lòng con ơi

TQ13 - CHÍN CHỮ CÙ LAO. CHÍN CHỮ CÙ LAO . TRẦN QUÊ HƯƠNG . I. "Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã. Phủ ngã, súc ngã, trưởng ngã, dục ngã. Cố ngã, phục ngã, xuất nhập phúc ngã. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực". Cha sinh ra ta, mẹ nâng đỡ ta. Vuốt ve ta, cho ta bú, nuôi ta Bởi vậy, kết lại bài ca dao, tác giả dân gian đưa ra lời nhắn nhủ: Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Nhắc đến "cù lao chín chữ" là nhắc đến công ơn mang nặng đẻ đau, công ơn sinh thành dưỡng dục nuôi nấng con thành người của cha của mẹ. Để có con khôn lớn hôm nay Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi. Bài ca dao đã ca ngợi công ơn sinh thành to lớn của cha mẹ đối với con cái và nhắc nhở con cái phải kính trọng, yêu thương và báo hiếu với cha mẹ. Bài ca dao đã sử dụng hình ảnh so sánh quen thuộc trong ca dao Việt Nam. CÙ LAO CHÍN CHỮ GHI LÒNG CON ƠI . Bạn nào giúp mình với mình đang cần gấp lắm !!! NÚI CAO BIỂN RỘNG MÊNH MÔNG. Theo dõi Vi phạm Trả lời (1) Công cha nghĩa mẹ được nói đến nhiều trong ca dao. Bài ca dao "Công cha như núi Thái Sơn" hầu như em bé nào cũng đã "uống" qua lời Theo em, "chín chữ cù lao" mà tác giả dân gian nhắc đến trong câu ca dao "Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!" là chín chữ nào? 4. Từ nội dung bài ca dao kết hợp với hiểu biết thực tế, em hãy viết một đoạn văn khoảng 7 - 9 câu nêu suy nghĩ về lòng hiếu thảo của con cháu timerbyhis1974. "Công cha như núi ngất trờiNghĩa mẹ như nước ở ngoài biển ĐôngNúi cao biển rộng mênh môngCù lao chín chữ ghi lòng con ơi!” Chiều ngày 28/6/2019 tức ngày 26/05 Kỷ Hợi, Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh đã có một thời Pháp thoại về hiếu đạo vô cùng ý nghĩa với hàng ngàn khóa sinh của Khóa tu mùa hè lần I. Bài giảng của Sư Phụ đã giúp các em cảm nhận và thấu hiểu hơn về công lao của mẹ - người đã cả một đời vất vả sớm khuya để dành cho con mình những điều tốt đẹp nhất. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh “Đức mẹ hiền chín chữ cù lao” trong bài giảng của Sư Phụ đã tái hiện lại được chặng đường dài mà mẹ phải trải qua để nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Thuật ngữ “cù lao” bao gồm chín ơn lớn đã phần nào khắc họa lên sự chăm sóc, hy sinh, tình yêu thương của người mẹ dành cho người con. Chín chữ cù lao ấy là Sinh - Cúc - Phủ - Súc - Trưởng - Dục - Cố - Phục - Phúc. Các bạn khóa sinh thành kính tri ân Sư Phụ về bài giảng ơn đức của mẹ "chín chữ cù lao" 1. Chữ "Sinh" Đầu tiên là chữ “Sinh”. Không ai có mặt trên đời mà không từ mẹ sinh ra. Khi mang thai, người mẹ hạnh phúc lắm vì mẹ coi đứa con của mình như ngọc như vàng, coi con như là tất cả của mẹ. Nhưng bên cạnh đó mẹ cũng rất lo lắng, chịu bao cơ cực mong sao cho đứa con bé bỏng của mình được khỏe mạnh, thông minh. Đến khi sinh nở, mẹ phải trải qua những nỗi đau đớn về thể xác mà chỉ có mình mẹ hiểu được; thậm chí dù có phải đánh đổi mạng sống của mình để con được chào đời an toàn thì mẹ cũng vẫn sẵn sàng hy sinh. Nguy hiểm là thế, khó khăn là thế nhưng được nghe tiếng khóc đầu đời của con là mẹ luôn nở nụ cười hạnh phúc và mãn nguyện. 2. Chữ "Cúc" Rồi đến chữ “Cúc”. “Cúc” đó là ẵm bế, nâng niu. Người mẹ nâng đỡ con khi con vẫn còn là sinh linh bé nhỏ nằm trong bụng mẹ. Và khi con ra đời, mẹ luôn chăm nom, nâng đỡ, chỉ cần con khóc là mẹ lại bế con lên dỗ dành. Khi đứa con bước những bước chân đầu đời, con vấp ngã, mẹ cũng dịu dàng nâng con dậy, lo lắng sợ con đau. Quả thật, không ai yêu quý con bằng mẹ; mẹ thương con vô bờ bến, công ơn của mẹ lớn tựa biển trời. 3. Chữ “Phủ” Tiếp là chữ “Phủ”. “Phủ” có nghĩa là ôm ấp. Ngay từ khi sinh ra, bất kì người con nào cũng sẽ được đón nhận hơi ấm từ người mẹ, được nép mình trong vòng tay mẹ, được mẹ chở che. Nhất là trong đêm đông giá lạnh, ấp vào lòng mẹ, được mẹ hà hơi sưởi ấm có lẽ là điều hạnh phúc nhất thế gian. 4. Chữ “Súc” Sau là chữ “Súc”. Mẹ cho con bú mớm, lo từng miếng ăn cho con mỗi ngày. Ngay từ khi lọt lòng, người con đã được hưởng dòng sữa mẹ bao la. Có những gia đình nghèo không có bột nấu cho con ăn, người mẹ phải nhai cơm rồi mớm cho con. Khi đứa con biếng ăn, mẹ luôn chăm lo dỗ dành từng chút một mong sao cho con mình hay ăn chóng lớn để luôn khỏe mạnh. Đó chính là ý nghĩa của chữ “súc”. 5. Chữ "Cố" Chữ “Cố” thì sao? Chữ “Cố” là mẹ luôn chăm nom, mong ngóng, không lúc nào rời mắt khỏi các con. Những bước chân chập chững đầu đời của con, mẹ là người đầu tiên dõi theo. Bước chân tuy nhỏ bé nhưng lại là niềm hạnh phúc to lớn của mẹ. Cho đến khi con lớn lên, mẹ vẫn hằng trông mong con; cùng con đồng hành từ những chặng đường đầu tiên của cuộc đời đến khi con thành đạt. Chỉ đến lúc mẹ khuất núi thì ánh mắt dõi theo con mới dừng nghỉ mà thôi. 6. Chữ “Dục” Còn chữ “Dục” thế nào? Chữ “Dục” thể hiện sự dạy dỗ, kèm cặp con nên người của mẹ. Người mẹ chính là cô giáo đầu tiên trong cuộc đời của con. Từ câu nói đầu đời, câu chào hỏi dạ thưa cho đến những điều hay lẽ phải cũng đều là mẹ dạy cho con. Rồi con biết đọc, biết viết; con biết chăm sóc, yêu thương ông bà, cha mẹ và mọi người. Những điều đó mẹ đều theo sát, chỉ bảo tận tình cho con. Mẹ cũng là người gần gũi nhất, là người đóng góp công sức nhiều nhất cho sự trưởng thành của con. 7. Chữ “Trưởng” Chữ “Trưởng” là sao? Mẹ nuôi nấng con từ trong bụng đến khi trưởng thành. Đây quả là một hành trình đầy gian lao, vất vả. Từ khi còn bé thì mẹ lo con đau ốm, biếng ăn; ở độ tuổi con đi học thì mẹ tần tảo sớm khuya để nuôi ăn học, mong sao cho con trưởng thành. Thậm chí khi con trưởng thành rồi, mẹ vẫn chưa hết lo. Thật đúng với câu “Mẹ già trăm tuổi vẫn thương con tám mươi.” 8. Chữ “Phục” Với chữ “Phục” là thế nào? Với chữ “Phục”, ta hiểu rằng mẹ luôn thăm non, gần gũi và dành sự quan tâm đặc biệt cho đứa con của mình. Mỗi khi đi xa, người mẹ luôn nhớ con, lo cho các con nhiều lắm. Rồi khi con ốm, mẹ thức trắng đêm dài vì lo lắng, xót xa đứa con. Và chắc chắn một điều rằng mẹ là người gần gũi nhất, dù bất cứ chuyện gì xảy ra thì mẹ vẫn ở bên cạnh ủng hộ, yêu thương con hết lòng. 9. Chữ “Phúc” Cuối cùng là chữ “Phúc”. Chữ “Phúc” là mẹ bao bọc, che chở những người con. Mẹ luôn là chỗ dựa vững chắc nhất cho con; con đi bất cứ đâu cũng có vòng tay mẹ để trở về, dù con lớn khôn nhưng với mẹ vẫn là đứa con bé bỏng mẹ thường chăm lo. Mẹ cũng là người luôn sẵn sàng hy sinh mọi thứ để cho đứa con của mình có được một điều tốt đẹp nhất, vòng tay mẹ luôn mở rộng đón đứa con thơ trở luôn là thế đấy! Một người phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng lại gánh vác được tất cả mọi thứ trên vai. Mẹ không quản ngại mưa nắng, phong ba để nuôi con thành người, luôn là nơi chốn để con quay về. Các bạn khóa sinh gửi những trái tim yêu thương đến cho cha mẹ sau khi được Sư Phụ giảng về ơn đức mẹ "chín chữ cù lao" Qua câu “Chín chữ cù lao” trong bài giảng “Mẹ yêu ơi!”, Sư Phụ đã giúp các bạn hiểu hơn về công ơn nuôi dưỡng của mẹ - người mình phải suốt đời mang ơn và báo hiếu. Những lời giảng thấm đượm tình hiếu đạo của Sư Phụ sẽ là bài học và hành trang quý báu cho tất cả các bạn khóa sinh. Thấu hiểu, yêu thương, chăm sóc và là một người con có hiếu để đền đáp công ơn như trời biển của mẹ là những gì các bạn đã hiểu được khi nghe Sư Phụ giảng. Hy vọng sau khi về nhà, các bạn khóa sinh sẽ trở thành những người con ngoan, hiếu thảo và luôn khắc ghi “chín chữ cù lao” để báo đáp công ơn của mẹ! Hạnh Liên Nhân mùa Vu Lan vừa rồi, có một ngôi chùa miền Trung treo bức đại tự “Công cha như núi ngất trời/ Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông/ Núi cao biển rộng mênh mông/ Cù lao chín chữ ghi lòng ai ơi”. Vậy cù lao trong câu ca dao nghĩa là gì, có liên quan gì đến cách gọi các hòn đảo ngoài biển hay không? Lễ Vu Lan báo hiếu. Ảnh Internet 1. Trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, tả tâm tư Thúy Kiều phân vân giữa mối tình với Kim Trọng và quyết định hy sinh bán mình chuộc cha, truyện có câu “Duyên hội ngộ, đức cù lao/ Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?” hay “Nhớ ơn chín chữ cao sâu/ Một ngày một ngã bóng dâu tà tà”. Chữ cù lao trong ca dao và Truyện Kiều có nghĩa khác hẳn so với danh từ cù lao, để chỉ các hòn đảo giữa sông, hay chí Kiến thức ngày nay số ra ngày tác giả An Chi giải thích, hai chữ Cù và Lao đồng nghĩa là nhọc nhằn, vất vả. Vì vậy chúng đi với nhau để tạo thành một từ ghép đẳng lặp nhằm diễn đạt một ý tổng quát hơn. Ông trích dẫn “Kinh Thi có câu “Cù lao vu dã”, nghĩa là thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta”. Tầm nguyên tự điển của Bửu Kế nói về chữ này cũng trích Kinh Thi “Ai ai phụ mẫu/ sinh ngã cù lao - thương xót thay cha mẹ sinh ta khó nhọc”. Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh NXB Duy Tân năm 1949 chú giải “Cù - Nhọc nhằn siêng năng/ Cù lao - siêng năng khó nhọc”. Với chữ lao, trong tự điển này giải thích “Nhọc lòng, nhọc sức - Khó nhọc - Công khó nhọc”.Tuy vậy trong câu ca dao trích dẫn trên, cù lao đến chín chữ Cửu tự cù lao, là gồm những chữ nào? Trong Tầm nguyên tự điển giải thích chín chữ đó gồm sinh đẻ, cúc nâng, đỡ, phủ vuốt ve, xúc cho bú, trưởng làm cho lớn, dục dạy dỗ, cố đoái tưởng đến, phục săn sóc, dạy bảo, phúc bảo vệ. Ngoài ra có một vài tự điển khác có cách giải thích khác đi một ít, ví dụ phục quấn quýt, xúc nuôi cho lớn… Nhưng nhìn chung các sách đều cùng một cách giải thích chín chữ cù lao có nghĩa công ơn dưỡng dục của cha Trong điển tích Phật giáo, Kinh Vu Lan báo hiếu có câu chuyện kể Tôn giả Mục Kiền Liên vượt qua trăm ngàn thử thách, gian khổ để đến địa ngục cứu mẹ. Ông hỏi “Làm thế nào để cứu mẹ của con?”, Đức Phật nói “Ngày âm lịch 15 tháng 7, sau ba tháng của các nhà sư tu tập phát tâm cúng dường tam bảo để lấy phước cứu mẹ”. Mục Kiền Liên theo lời Phật dạy tổ chức cúng dường chư tăng và từ đó mẹ của ngài được sanh về cõi lành. Lòng hiếu thảo của Mục Kiền Liên cao quý, từ đó mỗi năm vào rằm tháng 7, Phật giáo có đại lễ Vu Lan báo hiếu, ôn lại tích hiếu thảo của ông, nhằm nhắc nhở Phật tử luôn tưởng nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và bổn phận báo hiếu của người nhân dạy, người làm con với cha mẹ phải có năm cử chỉ “Phàm vi nhân tử giả, xuất tất cáo, phản tất diện, du tất hữu thường, tập tất hữu nghiệp, hằng ngôn bất xưng lão”. Nghĩa là Phàm làm con thì phải đi thưa, về trình, đi chơi thì phải chơi chỗ thường ngày, phải học tập có nghề nghiệp, thường nói năng khiêm tốn, không được huênh sách Mạnh Tử dạy năm việc sau đây được xem là bất hiếu “Nọa kỳ tứ chi, bất cố phụ mẫu chỉ dưỡng, nhất bất hiếu dã; Bác định, hiếu ẩm tửu, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, nhị bất hiếu dã; Hiếu hóa tài tư thê tử, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, tam bất hiếu dã; Tùng nhĩ mục chi dục, vi phụ mẫu lục, tứ bất hiếu dã; Hiếu dõng đấu ngân, dĩ nguy phụ mẫu, ngủ bất hiếu dã”. Nghĩa là Lười biếng trễ nải, chẳng đoái hoài việc nuôi cha mẹ, là điều bất hiếu thứ nhất; Mê cờ bạc, ham rượu chè, chẳng lo việc phụng dưỡng cha mẹ, là điều bất hiếu thứ hai; Ham mê tiền của, gom góp cho vợ con mà chẳng lo việc nuôi cha mẹ, là điều bất hiếu thứ ba; Buông lung theo thị dục của tai mắt, làm cho cha mẹ phải khốn đốn vì mình, là điều bất hiếu thứ tư; Ỷ sức, cậy tài đua tranh đánh lộn, làm cho cha mẹ phải bị vạ lây, là điều bất hiếu thứ Từ “cù lao”, Từ điển Từ cổ của Vương Lộc NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 2002 còn cho biết, đó là cái quai trên đầu quả chuông. Trong Chỉ Nam Ngọc Ân có trích dẫn câu ca dao “Bây giờ tính nghĩ làm sao/ Cho chuông ấm tiếng cù lao vững vàng”.Và một từ “cù lao” khác là danh từ được hiểu theo nghĩa là phần đất hoặc là núi nổi lên giữa biển. Ví dụ như ở Quảng Nam có Cù Lao Chàm, Quảng Ngãi có Cù Lao Ré nay gọi là đảo Lý Sơn… Trong sách Phủ biên tạp lục, học giả Lê Quý Đôn có viết “Phủ Thăng Hoa, ở ngoài cửa biển Đại Chiêm có núi to gọi là Cù Lao Chàm, ba ngọn đối nhau, hai ngọn lớn mà xanh tốt, có dân cư, ruộng nương; có các thứ cam, quýt, đỗ, lạc; trên có suối nước ngọt, một ngọn nhỏ mà khô khan, ra biển hai canh thì đến…”. Kế đó sách Đại Nam nhất thống chí, thời nhà Nguyễn chính thức định danh “… cách huyện Diên Phước 68 dặm về phía Đông, ngất ngưởng giữa biển gọi là đảo Ngoạ Long, cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao; dân phường Tân Hợp ở phía Nam núi; ruộng đất trên núi có thể cày cấy, thuyền bè nước ta thường trông núi này làm chừng đi về đều đỗ ở đấy để lấy củi nước…”.Cù Lao Chàm nay trên bản đồ hành chính thuộc An, với tên xã Tân Hiệp có phải chuyển từ tên Tân Hợp trong Đại Nam nhất thống chí chăng?. Người dân ven biển Hội An, Duy Xuyên gọi gọn hòn đảo này là Lao. Dân gian vùng này có ca dao “Ra Lao đốn Lụi thật Dài/ Chờ Mồ Khô Lá, xuống Tai chực Nờm nồm” ghi nhớ tên của 7 đảo nhỏ tại đây - Lao, Lụi, Dài, Mồ, Khô, Tai, Lá, trong đó Lao là hòn đảo lớn nhất, có dân cư sinh sống, còn các đảo khác tùy theo hình dáng hoặc thực vật, động vật đặc hữu trên đó mà đặt tên… Cù lao 9 chín chữ ghi lòng con ơi Ngồi bên cạnh hóng hớt mẹ đang dạy các em cấp 2. Nghe đến đoạn cù lao chín chữ ghi lòng con ơi". Thấy tò mò quá. Hóa ra giờ mình mới biết đến 9 chữ này. Hổ thẹn thật. 1/- “CỬU TỰ CÙ LAO” để chỉ công lao nuôi dưỡng khó nhọc của cha mẹ dành cho con cái , gồm có “ Sinh, cúc, phủ, súc, trưởng, dục, cố, phục, phúc” . Vì thế, ca dao ta có câu Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông Núi cao, biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi ! 2/- Ý nghĩa của 9 chữ đó như sau * SINH là sinh đẻ * CÚC là đùm bọc * PHỦ là vỗ về * SÚC là cho bú mớm * TRƯỞNG là nuôi nấng, bồi bổ để con khôn lớn trưởng thành * DỤC là dạy bảo điều hay lẽ phải * CỐ là theo dõi săn sóc * PHỤC là khuyên răn, giáo dục * PHÚC là che chở, giữ gìn. Mình nghĩ câu ca dao trên nên lấy thêm 2 câu này cho hoàn thiện Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con Vì 4 câu trên có cái gì có cái gì đó giống như là tư tưởng, chưa có định hướng hành động. 2 câu này thì làm rõ hơn hành động là người con thì nên và phải làm gì. Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông Núi cao, biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi ! Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo conCon đối với cha mẹCông cha như núi ngất trờiNghĩa mẹ như nước ngời ngời biển ĐôngNúi cao, biển rộng mênh môngCù lao chín chữ ghi lòng con ơi !Một lòng thờ mẹ kính chaCho tròn chữ hiếu mới là đạo conMỗi đêm mỗi thắp đèn trời,Cầu cho cha mẹ sống đời với già đầu bạc như tơ,Lưng đau con đỡ, mắt mờ con đêm rồi lại lo ngày,Ở sao hiếu thảo cho tày phận ta bụng đói thân gầySao ta vui thú mâm đầy cỗ cao ?Cha mẹ là biển là trời,Hiếu tâm đâu dám cãi lời mẹ xa chi ngại Trường SơnNgại chăng là ngại lòng con quên vềĐói lòng ăn hột chà là,Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu bỏ cha mẹ cơ hàn;Ngày sau Trời phạt đứng đàng đường ăn xinBình phong cẩn ốc xà cừVợ hư thì bỏ, chớ từ mẹ chaCầm cần câu cá ngược xuôiNấu canh rau bợ mà nuôi mẹ giàCá bống chặt đầu, chặt đuôiTôm he bóc vỏ mẹ già chớ quênKính cha, tấm lụa tấm là,Gửi cha đôi áo chiếc quần, con con, con nhớ lấy lời,Trọng cha, kính mẹ, suốt đời chớ quên. Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Bài ca dao này đã làm xúc động lòng người bởi đã gợi nên công ơn trời bể của cha mẹ đối với những người con thân yêu của mình. Tác giả dân gian nhắc đến “công cha”, “nghĩa mẹ”, đó là công sinh thành, dưỡng dục; đó là ơn nghĩa mang nặng đẻ đau và những yêu thương mẹ dành cả cho con. Ví “công cha”, “nghĩa mẹ” như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông là lấy cái trừu tượng của tình phụ tử, tình mẫu tử so sánh với cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên. Ví công cha với núi ngất trời là khẳng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng và sự dạt dào. Đây cũng là một nét riêng trong tâm thức của người Việt. Hình ảnh người cha thì rắn rỏi, mạnh mẽ, cha như cột trụ trong gia đình. Hình ảnh mẹ không lớn lao, kì vĩ nhưng sâu xa, rộng mở và dạt dào cảm xúc hơn. Bởi vậy, nghĩ đến công ơn cha mẹ, bài ca dao thiết tha nhắn nhủ những người con “ghi lòng con ơi!” những công ơn trời bể ấy. Và hơn thế là định hướng về cách sống, cách bày tỏ lòng biết ơn dành cho cha cho mẹ. “Công cha như núi ngất trờiNghĩa mẹ như nước ở ngoài biển ĐôngNúi cao biển rộng mênh môngCù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”.Chiều ngày 28/06/2019 tức ngày 26/05 Kỷ Hợi, Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh đã có một thời Pháp thoại về hiếu đạo vô cùng ý nghĩa với hàng ngàn khóa sinh của Khóa tu mùa hè lần I. Bài giảng của Sư Phụ đã giúp các em cảm nhận và thấu hiểu hơn về công lao của mẹ – người đã cả một đời vất vả sớm khuya để dành cho con mình những điều tốt đẹp nhất. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh “Đức mẹ hiền 9 chữ cù lao” trong bài giảng của Sư Phụ đã tái hiện lại được chặng đường dài mà mẹ phải trải qua để nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Thuật ngữ “cù lao” bao gồm chín ơn lớn đã phần nào khắc họa lên sự chăm sóc, hy sinh, tình yêu thương của người mẹ dành cho người con. 9 chữ cù lao ấy là Sinh – Cúc – Phủ – Súc – Trưởng – Dục – Cố – Phục – Phúc. Qua bài giảng, Sư Phụ đã giúp các bạn hiểu hơn về công ơn nuôi dưỡng của mẹ – người mình phải suốt đời mang ơn và báo hiếu. Những lời giảng thấm đượm tình hiếu đạo của Sư Phụ sẽ là bài học và hành trang quý báu cho tất cả các bạn khóa sinh. Thấu hiểu, yêu thương, chăm sóc và là một người con có hiếu để đền đáp công ơn như trời biển của mẹ là những gì các bạn đã hiểu được khi nghe Sư Phụ giảng. Hy vọng sau khi về nhà, các bạn khóa sinh sẽ trở thành những người con ngoan, hiếu thảo và luôn khắc ghi “chín chữ cù lao” để báo đáp công ơn của mẹ!